PVC có xu hướng tiếp tục hạ giá ở châu Âu trong bối cảnh cuộc chiến đối đầu nhu cầu yếu

Các giao dịch PVC tháng 5 trên khắp châu Âu có mức giảm lên tới 3 con số. Các nhà kinh doanh dự đoán mức giảm tương tự trong tháng 6 do các hợp đồng monomer giảm 80 EUR/tấn và việc thiếu niềm tin vào triển vọng nhu cầu cùng với nguồn tồn kho dồi dào đóng vai trò là chất xúc tác thúc đẩy xu hướng giảm giá. Tháng 6 sẽ đánh dấu tháng thứ ba liên tiếp giá giảm sau khi có thông báo chính thức.

Giá K67-68 chạm đáy trong 2 năm qua

Giá bình quân hàng tuần của K67-68 đã giảm xuống dưới ngưỡng 1150 EUR/tấn FD NWE và 1250 EUR/tấn FD Ý, quay trở lại mức thấp nhất kể từ tháng 3 năm 2021. Giá PVC tại Ý thường giao dịch ở mức cao hơn giá giao ngay Tây Âu, do quy mô thị trường nhỏ hơn và chi phí vận chuyển về phía nam cao hơn.

FD–NWE–Italy–PVC

Giá cả cạnh tranh khiến PVC yếu thế

Tháng 5 là một tháng ngắn hơn trong bối cảnh các lễ hội ở Tây Âu, khi các lĩnh vực phái sinh như y tế, thực phẩm, nông nghiệp, xây dựng, nội thất và ô tô chịu ảnh hưởng từ lạm phát cao. Theo Eurostat, lạm phát của khu vực Eurozone đã giảm xuống 6,1% trong tháng 5, đây là mức thấp nhất kể từ khi cuộc chiến Nga/Ukraine bắt đầu vào tháng 2/2022.

Điều này đã gây ra một cuộc chiến giá cả giữa những người bán nhằm mục đích xả hàng tồn kho, với các báo giá đặc biệt cho khối lượng bổ sung được cho là thấp hơn nhiều so với mức giá thị trường giao ngay. Một nhà kinh doanh cho biết: “Một số người bán đã đưa ra các báo giá cạnh tranh ngay cả đối với khối lượng giao ngay thông thường. Các nhà cung cấp xuất khẩu đang chịu áp lực lớn hơn khi nhu cầu trên các thị trường toàn cầu gặp khó khăn trong việc phục hồi.”

Nguồn tồn kho cao bất chấp công suất cắt giảm tới 40%

Một số nhà sản xuất PVC đã tiếp tục giảm giá thêm cho đến cuối năm, phản ánh điều kiện nhu cầu mong manh. Hầu hết các nhà cung cấp vận hành công suất ở mức 60-65%, trong khi việc cắt giảm thêm công suất dường như không hợp lý vì nó sẽ không làm giảm chi phí sản xuất cố định. Chi phí tiện ích giảm mạnh và giá ethylene trượt dốc đã hỗ trợ phần nào, bù đắp cho giá xút giảm. Trong khi đó, Vinnolit tuyên bố bất khả kháng đối với sản lượng PVC từ Đức vào tháng 5 do các vấn đề kỹ thuật.

Mặc dù khối lượng giảm, song áp lực tồn kho vẫn có thể nhìn thấy được trong tháng 5 do tồn kho nhựa vượt quá nhu cầu. Không chỉ sự hiện diện của hàng nhập khẩu cạnh tranh mà xuất khẩu giảm của các nhà cung cấp châu Âu cũng đóng một vai trò trong việc tích lũy hàng tồn kho.

Cuộc chiến vẫn chưa kết thúc

Mặc dù thị trường PVC thường hoạt động tốt hơn trong tháng 6, song không có dấu hiệu tích cực nào cho kỳ hạn sắp tới bất chấp tính thời vụ. Các nhà chuyển đổi mua theo nhu cầu của họ, trong khi khách hàng của họ cũng đang ở tư thế chờ đợi do lạm phát. Một số người tham gia thị trường dự kiến sẽ thấy hoạt động bổ sung hàng vào tháng 9 sau khi hết nguồn tồn kho trong mùa hè. Ngoài ra, nhu cầu sẽ không phục hồi thực sự ít nhất cho đến quý 1 năm 2024.

Mức giảm lớn dự kiến cho tháng 6 vì mức giá hiện tại được coi là không hợp lý. Giá cao hơn mức trước đại dịch tại châu Âu, trong khi việc liệu giá có trở lại mức bình thường trước đại dịch hay không – chủ yếu dưới mức 1000 EUR/tấn – hay không vẫn còn phải xem.
Châu Âu cũng giao dịch tốt hơn các thị trường toàn cầu khác đang dao động quanh mức thấp nhất trong nhiều tháng qua. Theo dữ liệu của ChemOrbis, giá FD Tây Bắc Âu đã giảm phần nào so với các khu vực khác sau khi giá giảm trong tháng 5 nhưng vẫn cao hơn Trung Quốc (455 USD/tấn), Đông Nam Á (465 USD/tấn), Ấn Độ (450 USD/tấn) và Thổ Nhĩ Kỳ (370 USD/tấn) ).

Bên cạnh đó, giá nhập khẩu cạnh tranh là một điểm gây áp lực khác giữa cuộc chiến khó khăn của châu Âu với suy thoái kinh tế.

Mức chênh lệch lớn giữa giá nội địa, nhập khẩu được giữ nguyên

Khoảng cách giữa báo giá trong nước và nhập khẩu vẫn còn lớn ở mức khoảng 200-400 USD/tấn tùy thuộc vào loại và khu vực.

Báo giá tháng 5 mới nhất của PVC K64-65 Mỹ đạt 950-960 EUR/tấn DDP Italy, 60 ngày, giao hàng trong tháng 7. Một hợp đồng cho K64-65 của Mỹ giao hàng trong tháng 5 đạt 1000 EUR/tấn theo các phương thức tương tự. Trong khi đó, K64-65 của Mỹ đóng bao lớn được báo giá 870-900 EUR/tấn theo các phương thức tương tự.

K67-68 của Ai Cập được báo cáo ở mức 830 EUR/tấn CIF Ý, 90 ngày, trong khi PVC K67-68 của Mỹ được bán với giá 800 EUR/tấn theo các phương thức tương tự.

Trong khi đó, K70 của Đài Loan được bán với giá 965 EUR/tấn DDP Italy, 60 ngày, giao hàng vào cuối tháng Bảy. Báo giá K70 của Mỹ đứng ở mức 875 EUR/tấn CIF Ý, 60 ngày. Tại Đức, K70 của Hàn Quốc được báo giá 825 EUR/tấn CIF, 30 ngày.

Tại Ý, giá nội địa đạt 1190-1270 EUR/tấn K67-68, 1210-1290 EUR/tấn K70 và 1200-1280 EUR/tấn K58 và K64-65, tất cả đều theo phương thức FD, 60 ngày. Tại Tây Âu, giá đạt 1100-1180 EUR/tấn K67-68, 1120-1200 EUR/tấn K70 và 1110-1190 EUR/tấn K58 và K64-65 theo các phương thức tương tự.

Nhu cầu nhập khẩu có thể giảm dần

Chắc hẳn rằng những người mua trong khu vực đã tăng khối lượng mua của họ từ thị trường nhập khẩu, mang lại lợi thế cạnh tranh hơn nhiều so với các loại PVC giao ngay. Điều này đã trở thành một tiêu chuẩn vì giá giao ngay tăng cao ngăn cản người mua đáp ứng tất cả các nhu cầu của họ tại địa phương và khuyến khích mua hàng từ thị trường nhập khẩu để giảm chi phí trung bình cho hàng tồn kho của họ.

Do nhập khẩu cạnh tranh làm giảm sức mua, các nhà sản xuất châu Âu dự kiến sẽ đưa ra mức giảm lớn để giảm khoảng cách giữa thị trường giao ngay và thị trường nhập khẩu. Trong thực tế, gần đây nhiều người mua đã tránh mua hàng từ thị trường nhập khẩu vì giá PVC nội địa dự kiến sẽ giảm đáng kể. Thêm vào đó, họ có xu hướng mua ít hàng nhập khẩu hơn khi giao hàng trong những tháng mùa hè cân nhắc hoạt động sản xuất mờ nhạt.

Một nhà hợp chất khẳng định: “Chúng tôi đã nhận lô hàng PVC Mỹ mua cách đây 2 tháng tuy nhiên không đặt hàng mới vì dự đoán khoảng cách giữa thị trường trong nước và thị trường nhập khẩu sẽ thu hẹp. Nhập khẩu sẽ không thuận lợi sau khi PVC trong nước giảm rõ rệt. Giá có thể đạt 1000 EUR/tấn FD vào tháng 6 nếu theo sau sự sụt giảm của monomer.” Một người bán cũng cho biết: “Nếu PVC đạt 1000 EUR/tấn FD, thì sẽ không cần mua hàng nhập khẩu vì khoảng cách giữa giá nội địa và giá nhập khẩu sẽ giảm xuống còn 100-150 EUR/tấn.”

Được viết bởi Manolya Tufan – [email protected]

Nguồn: https://www.chemorbis.com/vi/

0933068071
icons8-exercise-96 chat-active-icon chat-active-icon